🦓 Vì Sao Phóng Sinh Lươn
Với mỗi tình huống khác nhau, lươn điện lại có cách riêng để tự vệ. gif. Khi phóng điện, lươn sẽ "uốn lượn" cơ thể để tránh dòng điện chạy qua tim. Tuy nhiên, chẳng có gì là tuyệt đối. Đôi khi tai nạn vẫn xảy ra và kết quả phụ thuộc vào cường độ dòng điện
Về nguyên nhân, kỹ sư Thành giải thích: "Lươn là loài lưỡng tính, lươn đực nhanh lớn hơn lươn cái, nên người dân dùng thuốc tránh thai để ức chế quá trình lươn biến thành lươn cái". Kỹ sư Thành cho biết thuốc tránh thai là chất cấm sử dụng trong quá trình nuôi lươn, vì sẽ không bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm.
Nhiễm giun truyền qua đất ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản làm ảnh hưởng tới thời kỳ mang thai, gây thiếu máu ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thai nhi, có thể gây đẻ non, trẻ thiếu cân, tử vong mẹ và trẻ sơ sinh.
Đầu tiên, "Lễ phóng sinh" được tổ chức ở sông Đồng Nai, gần chùa Hội Sơn, quận 9, sau đó do nhiều Phật Tử báo có người theo dõi để đánh bắt vật phóng sinh nên Thầy Tri Sự chuyển sang gần quán Cá Sấu Hoa Cà thuộc phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, tình
Chúng sinh sống ngơi nghỉ vùng sông nước và hồ Nam Mỹ, tất cả chiều nhiều năm buổi tối đa lên tới 2,5m và cân nặng 20kg lớn nhất. Dù các công ty công nghệ vẫn không rõ phép tắc vì sao lươn điện có thể tác động ảnh hưởng nguồn tích điện kia nhỏng một vũ khí
Cá phóng sinh nhưng được tái sử dụng để tăng lợi nhuận, người dân đi lễ chùa bức xúc. Người ta quan niệm rằng việc phóng sinh sẽ giúp tích phúc đức, giảm bớt nghiệp chướng, những điều không may mắn trong cuộc sống. Chẳng những thế, hình ảnh phóng sinh còn được
Phóng sinh là một việc làm thể hiện lòng từ bi bác ái, mục đích phóng sinh là để đánh thức tâm Bồ đề của chúng sinh (con vật) trước khi phóng sinh, là thể hiện lòng từ bi của người con Phật, tâm không mong cầu lợi ích cho riêng bản thân mình nhưng phước báu lại to lớn vô cùng.
Phóng sinh là một hành động thả vật, phóng thích, phải xuất phát từ tâm từ bi, khi thấy những con vật sắp bị giết, hay có nguy cơ bị giết, lòng ta như xúc động, do vậy trong tâm ta phát khởi lòng từ bi và muốn thả, để chúng trở về với môi trường và cuộc sống tự do của chúng.
Tính cách của người mắt hí (mắt lươn) Theo sách nhân tướng học thì người sở hữu nét tướng này là những người sống nội tâm, kín đáo, không quan tâm đến cuộc sống xung quanh, không thích chỗ đông người thường hay làm việc một mình. Chính vì vậy cuộc sống của
zKqNA. Thứ ba, 07/02/2022 0200 Ý nghĩa phóng sinh là ở nơi động cơ của phóng sinh mong muốn kéo dài thọ mạng của sinh vật. Còn kéo dài được bao lâu thì chúng ta phải có trách nhiệm khảo sát, nghiên cứu như muốn thả chim thì phải nghiên cứu xem thả loài chim gì, thả ở đâu, thả vào lúc nào mới an toàn, có kết quả. Ý nghĩa của việc phóng sinh Phóng sinh bắt nguồn từ kinh Phật Đại Thừa, thịnh hành ở Trung Hoa, Tây Tạng, truyền sang Nhật Bản và các nước láng giềng Triều Tiên, Việt Nam. Hoạt động phóng sinh dựa trên tinh thần từ bi và bình đẳng giữa chúng sinh, và quan niệm nhân quả của sinh tử luân hồi. Nếu vừa giữ giới sát, lại vừa phóng sinh thì công đức gấp bội. Những tỷ dụ kinh nghiệm cảm ứng về phóng sinh, sách sử nói đến rất nhiều. Trong kinh "Tạp bảo tạng" quyển 4 có ghi chép sư phụ của một Sa di biết Sa di này sẽ chết trong vòng 7 ngày, nên cho phép anh ta về thăm nhà, 7 ngày sau sẽ trở lại, nhưng không giải thích rõ lý do. Anh ta lên đường về nhà, thấy nước trong một cái ao thoát ra một khe hở, đe dọa một ổ kiến ở bờ ao. Bầy kiến nháo nhác chạy trốn nhưng không kịp với tốc độ nước tháo ra. Anh Sa di thấy vô số con kiến ắt phải chết đuối bèn lấy áo cà sa của mình bồi đất vào để đắp lỗ hổng ở bờ ao, cứu thoát bầy kiến. Sa di về thăm nhà 7 ngày, rồi trở lại ra mắt sư phụ. Sư phụ thấy Sa di kinh ngạc vô cùng, hỏi anh ta mấy ngày qua có xảy ra chuyện gì đặc biệt không. Tưởng rằng sư phụ nói mình phạm giới, làm việc bậy bạ nên lo sợ nói rằng không làm việc gì sai trái. Sư phụ là A la hán dùng thiên nhãn biết rõ là anh Sa di này đã làm một việc thiện nhỏ là cứu sống một bầy kiến, nhờ vậy mà khỏi phải chết yểu, được sống cho đến già. Các tín đồ Phật giáo đều biết rõ căn cứ của phóng sinh. Có hai bộ kinh. Một là "Kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới", trong đó có nói "Mọi người hãy lấy từ tâm mà phóng sinh, vì tất cả đàn ông là cha của mình, tất cả đàn bà là mẹ của mình, mình chính là từ ở đó mà sinh ra. Vì vậy chúng sinh trong sáu cõi đều là cha mẹ ta, giết họ mà ăn là giết cha mẹ, và giết cả bản thân mình nữa. Tất cả đất và nước là thân trước của ta, tất cả lửa và gió đều là bản thể của ta, cho nên thường làm việc phóng sinh, đời đời thọ sinh. Nếu người đời khi thấy việc giết hại súc vật thì nên cứu chúng thoát khỏi khổ nạn, thường giáo hóa nói về giới Bồ Tát, cứu độ chúng sinh". Bộ kinh thứ hai là "Kinh Kim Quang Minh" quyển 4 phẩm con ông trưởng giả Lưu Thủy kể lại chuyện ngày trước Phật Thích Ca tu hạnh Bồ Tát. Thời ấy Phật Thích Ca làm con ông trưởng giả Lưu Thủy. Một lần Người đi qua một cái hồ lớn. Trời đại hạn. Có người đắp đập trên thượng nguồn để bắt cá, làm cho mức nước hồ thấp xuống, hàng vạn cá lớn, cá bé có nguy cơ bị chết. Con trưởng giả muốn cứu bầy cá, nhưng không thể lên tận nguồn để phá đập chắn, bèn tâu với quốc vương phái đến 20 con voi lớn, chở nước tới, đổ đầy hồ, cứu sống đàn cá. Phóng sinh là tốt nhưng phải biết cách Kinh "Phạm Võng" là chỗ dựa lý luận của phóng sinh. "Kim Quang Minh" là chỗ dựa để xây ao phóng sinh. Các bộ kinh Đại Thừa khác như "Lục độ tập kinh" quyển 3, ghi chép việc mua rùa để phóng sinh. Cuốn "Đại Đường Tây Vực Ký" của Huyền Trang cuốn 9 kể chuyện Tháp Nhạn. Ở nước Magadha thuộc Trung Ấn Độ có một ngôi chùa Tiểu Thừa, do một vị Tỳ kheo tu không giữ giới ăn ba loại thịt thanh tịnh là các loại thịt không thấy giết, không nghe giết, không vì mình mà giết. Có một ngày, một Tỳ kheo không có thịt ăn, chính lúc đó ở trên trời có một bầy nhạn bay qua, Tỳ kheo bèn nói với đàn nhạn "Hôm nay, có vị Tăng không có thịt ăn, vì không ai cúng dường. Các vị Đại Bồ Tát biết là thời cơ đã đến rồi". Bầy nhạn nghe thấy như vậy, đều sa xuống mà chết. Vị Tỳ kheo ấy vốn không tin Đại Thừa, không tin chim nhạn có thể là Bồ Tát, nên nói ra câu trên để chế diễu Đại Thừa. Không ngờ chính các Bồ Tát đã hiển hiện làm nhạn để giác ngộ cho anh. Các Tỳ kheo Tiểu Thừa trong chùa lấy làm xấu hổ và bảo nhau "Đây là các vị Bồ Tát, ai mà dám ăn". Từ nay về sau phải dựa vào Đại Thừa, chúng ta sẽ không ăn ba loại thịt thanh tịnh. Rồi xây tháp thờ chim nhạn. Có thể thấy phóng sinh có gốc rễ ở giới sát. Cũng có thể nói phát triển giới sát thêm một bước, thành ra phóng sinh. Giới sát chỉ là ngăn không làm ác, là hành vi thiện thụ động. Phóng sinh cứu mạng là hành vi thiện tích cực. Nếu chỉ ngăn ác, mà không hành thiện thì không phải là tinh thần của Phật pháp Đại Thừa. Vì vậy mà Trung Quốc, từ thời Bắc Tề Lương đến nay, có phong trào không ăn thịt không sát sinh. Phong tục phóng sinh cũng từ đó được phát triển dần dần từ triều đình đến dân thường, từ chúng Tăng đến người trần tục đều coi trọng ăn chay. Chính phủ Dân quốc hiện nay cũng định kỳ cấm giết hại súc vật một số ngày trong năm, từ trung ương đến địa phương để cầu mưa, xua đuổi tai họa, người ta cũng tổ chức phóng sinh và cấm giết hại súc vật. Võ Đế nhà Lương xuống chiếu cấm sát sinh để cúng tế. Tỳ kheo Tuệ Tập đời nhà Lương, nguyện tự đốt hai cánh tay, đi khắp nơi khuyên phóng sinh. Đời Tùy, đại sư Trí Khải phát động phong trào xây ao phóng sinh, giảng các kinh "Kim Quang Minh" và "Pháp Hoa" để tuyên truyền xin bỏ tiền mua lương thực để nuôi cá. Đời Trần Tuyên Đế, Vua sai quan Tế Tửu Từ, Khắc Hiếu viết "Bài Bia về việc thiền sư Trí Khải" tu ở chùa Thiền núi Thiên Thai tổ chức phóng sinh. Điều đó mở đầu cho việc ghi chép các hội phóng sinh và các ao phóng sinh ở Trung Quốc. Từ đó về sau từ đời nhà Đường, nhà Tống đến nhà Minh, đời nào cũng có phát triển việc phóng sinh. Đời vua Đường Túc Tôn, có viết bài bia về ao phóng sinh. Đến đời Tống, hai đại sư Tuân Thức và Tri Lễ cũng ra sức tán thán việc phóng sinh. Cuối đời nhà Minh có đại sư Liên Trì là một trong những cao tăng rất tích cực tuyên truyền việc phóng sinh. Đại sư viết các bài "Như Lai không cứu nghiệp sát", "Ăn thịt", "Ăn chay" in trong tập "Trúc song tùy bút", lại viết các thiên thư như "Mặc áo lụa ăn thịt", "Giữ giới sát được sống thọ", "Ao phóng sinh", "Thầy thuốc giới sát sinh", "Vì bệnh ăn thịt". Trong tập "Trúc song tùy bút", lại có các bài "Sát sinh là tội ác lớn trong đời người", "Làm người không nên sát sinh", "Làm người không nên ăn thịt chúng sinh để khuyến khích giới sát và phóng sinh". Ngoài các bài viết về "ăn chay", ông còn viết các bài "Nghi thức phóng sinh", "Giới sát phóng sinh", để bày vẽ các nghi thức phóng sinh cho mọi người. Thời hiện đại có sách của đại sư Hoàng Nhất, các tập tranh về "Bảo vệ cuộc sống" của Phong Tử Khái "6 cuốn". Ngoài ra còn có Cư sĩ Thái Niệm Sanh đề xướng việc giới sát phóng sinh biên tập những câu chuyện về chủ đề "Động vật cũng có linh tính và cảm ứng" thành sách với nhan đề "Động vật còn như vậy". Nhưng trong xã hội hiện đại, khoa học kỹ thuật tiến bộ, mật độ nhân khẩu tăng nhanh, không gian sống bị thu nhỏ lại, muốn có một ao phóng sinh, một khu vực phóng sinh tuyệt đối an toàn là tương đối khó khăn. Ở nước Mỹ và Đài Loan hiện nay có các khu vực bảo vệ dã thú. Ngoài ra cũng có người do lòng thương yêu loài vật và muốn bảo vệ thiên nhiên đã khuyến khích dân chúng không nên giết, bắt bừa bãi, tránh phá hoại sự điều hòa phối hợp tự nhiên của sinh vật, tránh nguy cơ diệt chủng đối với loài động vật hiếm. Điều này phù hợp nhưng không hoàn toàn tương đồng với tinh thần phóng sinh của đạo Phật. Nếu chúng ta thả tất cả động vật được phóng sinh vào các khu bảo vệ động vật… thì sẽ có nguy cơ bão hòa, số động vật tăng nhan tới mức phải hạn chế. Ý nghĩa phóng sinh là ở nơi động cơ của phóng sinh mong muốn kéo dài thọ mạng của sinh vật. Do đó, chúng ta đến đâu để phóng sinh ? Nếu là cá thì có người câu hay thả lưới, nếu là chim, thì có người dùng súng bắn, hay dùng lưới vây bắt. Ở các chợ bán chim, bán cá ngày nay, thường không phải là động vật hoang dã, mà đại bộ phận là do người ở các ao cá, vườn chim. Những động vật này căn bản không thích ứng với hoàn cảnh tự nhiên, phóng sinh chúng cũng như sát sinh. Phóng sinh loài nhỏ, chúng sẽ bị những loài lớn ăn thịt. Phóng sinh loài lớn, chúng sẽ bị săn bắn đưa vào bếp các quán ăn. Hơn nữa, giống chim, loài cá đều có thói quen của chúng. Có những loài cá nhất định phải sống trong những hoàn cảnh nhất định như chất nước, độ sâu, độ chảy, mua giống cá sông thả vào biển hay mua và thả cá biển vào sông đều thành vấn đề. Loại chim nuôi ở công viên, không quen săn mồi trong hoàn cảnh tự nhiên không biết rau quả nào trong rừng có thể dùng làm thức ăn. Nếu thả chúng vào rừng sẽ bị đói hoặc bị các động vật khác hoặc các loài chim ăn thịt. Trong tình hình như vậy, có cần phóng sinh hay không, có nên phóng sinh hay không ? Điều này rõ ràng là một sự thực không may mắn. Sự hạn chế của hoàn cảnh tự nhiên làm cho cuộc vận động phóng sinh ngày càng khó khăn. Thực ra, ý nghĩa phóng sinh là ở nơi động cơ của phóng sinh mong muốn kéo dài thọ mạng của sinh vật. Còn kéo dài được bao lâu thì chúng ta phải có trách nhiệm khảo sát, nghiên cứu như muốn thả chim thì phải nghiên cứu xem thả loài chim gì, thả ở đâu, thả vào lúc nào mới an toàn, có kết quả. Đối với loài cá, tôm, cua cũng phải như vậy. Trước hết phải nghiên cứu tập quán sinh thái, nguồn gốc của chúng, rồi chọn thời cơ thích đáng nhất để thả chúng ở những nơi an toàn thích hợp nhất. Nhưng nếu không may, hôm nay chúng được thả, sang ngày hôm sau chúng bị bắt thì cũng đành chịu vậy. Mục đích của chúng ta là phát động lòng từ bi, tinh thần cứu tế của người phóng sinh. Còn số phận của động vật được phóng sinh ra sao, thì còn tùy thuộc vào nhân quả họa phúc và nhân duyên của chúng nữa. Miễn là khi phóng sinh chúng ta thành tâm cầu cho chúng được thoát nạn. Hãy vì chúng mà nói Tam Quy, nói Phật pháp, phát nguyện hồi hướng. Chúng có thể nhờ đó mà thoát ly được các thân khác loài, chuyển tái sinh làm người, sinh lên cõi trời, vãng sinh tịnh độ, phát tâm Bồ đề, độ thoát chúng sinh sớm thành Phật đạo. Trong việc phóng sinh, chúng ta chỉ cần tận tâm, tận lực mà làm. Như vậy là tốt. Phóng sinh là tốt nhưng phải biết cách Vào những dịp Tết, rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy hay những dịp cầu nguyện cho bản thân hay gia quyến, người ta hay tổ chức phóng sinh chim, cá. Phóng sinh là một việc làm thể hiện lòng Từ bi bình đẳng, mục đích phóng sinh là để đánh thức tâm Bồ đề của chúng sinh con vật trước khi phóng sinh. Phóng sinh là thể hiện lòng từ bị của người con Phật, tâm không mong cầu lợi ích cho riêng bản thân mình nhưng phước báu lại to lớn vô cùng. Tuy nhiên, việc làm tốt đẹp này đang ngày càng mất đi nét đẹp. Thả chim phóng sinh là một việc thiện và dễ làm, nhưng chính hành động đó đã tiếp tay cho đội quân chuyên đi săn lùng bắt các loại chim vào những dịp lễ, vô tình tiếp tay cho những người đi đánh bắt gây thêm nghiệp sát. Để có được một con đến tay người thả, ắt sẽ có nhiều con bị chết vì mệt mỏi, bệnh tật. Việc phóng sinh không đúng cách còn có thể gây những tác động không tốt đối với môi trường sống trong vùng. Vậy, chúng ta phóng sinh thế nào cho đúng? Ý nghĩa phóng sinh là ở nơi động cơ của phóng sinh mong muốn kéo dài thọ mạng của sinh vật. Phóng sinh được phúc báo Phóng sinh là khi gặp một con vật bị nạn, mình ra tay cứu thoát, hoặc nhìn thấy một hoặc nhiều con vật sắp bị giết, mình bỏ tiền ra mua để cứu sống chúng. Người học Phật tăng trưởng lòng từ bi là điều rất cần thiết nhưng từ bi phải có trí tuệ. Ở góc độ tương đối, khi thực hiện phóng sinh, chúng ta có thể hành theo ý nghĩa sau - Phóng sinh phải phát xuất từ lòng từ bi, không vì ý nghĩa tư lợi như cầu sống thọ, cầu may mắn, giải trừ tật bệnh,…. Vì nếu không như vậy, việc phóng sinh tuy có tốt, nhưng hiệu quả lại rất hạn chế. Tâm từ bi không khởi sinh, còn nói gì đến chuyện nuôi dưỡng! - Phóng sinh bằng cái tâm chứ đừng theo phong trào, làm việc bằng chánh kiến chứ không chạy theo số đông. - Phóng sinh là tự do, không phân lượng lớn nhỏ, ít nhiều, không chọn ngày giờ tốt xấu, không nên chờ dịp này hay dịp khác,…. Vì các loại lươn, cá, ốc, thú rừng,… bị săn bắt phục vụ cho người ăn thịt lúc nào, ngày nào cũng có; mà thời lượng nào thì sự nguy cấp cũng đều như nhau. Nên khi ta phát tâm từ bi thì liền thực hiện - tùy vào khả năng từ một, hai con đến muôn ngàn con cũng phải lập tức cứu thoát chúng – càng nhanh càng tốt, mà chẳng cầu được ai biết đến. - Khi phóng sinh cần thực hiện âm thầm, chọn nơi vắng vẻ càng tốt, vì pháp sự này không nên kích thích lòng tham của những người săn bắt, tạo thêm nghiệp chướng cho họ mà chính chúng ta cũng bị giảm phần công đức. - Phóng sinh là cơ hội để con vật có điều kiện quy y Tam Bảo và sám hối nghiệp chướng, việc làm tốt trong Đạo Phật, thể hiện lòng Đại từ Đại bi nên trong nghi thức phóng sinh có lễ quy y, sám hối cho con vật trước khi phóng sinh. Nhưng chúng ta cũng không nên quá chấp vào hình thức, tiến hành những nghi lễ rườm rà, câu nệ. Khi phóng sinh, thao tác phải nhanh nhẹn, rốt ráo; nghi lễ ngắn gọn nhưng đủ sức tế độ; không nên nặng phần hình thức, tránh cho các sinh vật phải chịu kéo dài nỗi khổ sợ hãi, ngột ngạt, tù túng vì bị giam cầm; có khi chúng phải mất mạng trước khi được ta phóng thích.
Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của lươn đồng đã cho thấy Tỷ lệ giới tính trong quần chủng tự nhiên của lươn đồng đực/lưỡng tính/cái là 37,03% 18,53% 44,44%. Tháng sinh sản cao điểm của lươn là tháng 4, lươn có khả năng sinh sản sớm hơn vào cuối tháng 3 nếu gặp điều kiện thuận lợi. Lươn đồng là loài đẻ nhiều lần trong năm. Sức sinh sản tuyệt đối cao nhất ở nhóm có chiều dài từ 54-70 cm là 638,67trứng/cá thể. Sức sinh sản tương đối dao động trung bình là 3,54-7,89 trứng/gam trọng lượng cơ thể. Kết quả từ các tiêu bản cho thấy lươn đồng là loài lưỡng tính. Từ khóa Đặc điểm sinh học, lươn đồng, lưỡng tính, tỷ lệ giới tính, sức sinh sản. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for free Tạp chí Khoa học – Đại học Huế ISSN 1859-1388 Tập 104, Số 05, 2015, Tr. 139-151 *Liên hệ nghiats34 Nhận bài 14-06-2015; Hoàn thành phản biện 29-06-2015; Ngày nhận đăng 25-07-2015. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC SINH SẢN CỦA LƯƠN ĐỒNG Monopterus albus Zuiew, 1793 TẠI THỪA THIÊN HUẾ Võ Đức Nghĩa1*, Lê Thị Thu An1, Trần Vinh Phương2 1Trường Đại học Nông Lâm – Đại học Huế 2Trung tâm Ươm Tạo và Chuyển Giao Công nghệ - Đại học Huế Tóm tắt. Kết quả nghiên cứu một số đặc điểm sinh học sinh sản của lươn đồng đã cho thấy Tỷ lệ giới tính trong quần chủng tự nhiên của lươn đồng đực/lưỡng tính/cái là 37,03% 18,53% 44,44%. Tháng bắt đầu sinh sản của lươn là tháng 4, lươn có khả năng sinh sản sớm hơn vào cuối tháng 3 nếu gặp điều kiện thuận lợi. Lươn đồng là loài đẻ nhiều lần trong năm. Sức sinh sản tuyệt đối cao nhất ở nhóm có chiều dài từ 54-70cm là 638,67 trứng/cá thể. Sức sinh sản tương đối dao động trung bình là 3,54-7,89 trứng/gam trọng lượng cơ thể. Kết quả từ các tiêu bản cho thấy lươn đồng là loài lưỡng tính. Từ khóa Đặc điểm sinh học, lươn đồng, lưỡng tính, tỷ lệ giới tính, sức sinh sản. 1 Đặt vấn đề Hiện nay, cùng với phong trào nuôi thủy đặc sản khác như cá chình, ba ba, ếch, phong trào nuôi lươn cũng đang phát triển, nhằm cung cấp đủ khối lượng cho nhu cầu thị trường ngày càng tăng và góp phần làm giảm áp lực khai thác lươn từ tự nhiên. Tuy nhiên, một khó khăn lớn đặt ra cho phong trào nuôi lươn là con giống phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên và không đảm bảo số lượng cũng như chất lượng. Trước nhu cầu của người nuôi, đã có một số trại nghiên cứu sản xuất lươn giống nhưng kết quả còn rất hạn chế. Vì vậy, việc nghiên cứu các đặc điểm sinh học, sinh sản của lươn, từ đó làm cơ sở cho việc sinh sản nhân tạo lươn thành công cung cấp cho thị trường là một yêu cầu cơ bản và rất quan trọng. 2 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu Vật liệu - Lươn đồng Monopterus albusZuiew, 1793 - Thu mẫu ở các nông hộ làm nghề khai thác lươn trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. 140 - Thời gian thu mẫu từ tháng tháng 1/2015 đến tháng 5/2015. Tổng số mẫu nghiên cứu là 135 mẫu có khối lượng giao động từ 12,8g/con đến 500g/con Phương pháp nghiên cứu - Mẫu lươn được giải phẫu để tính các chỉ tiêu sinh sản. + Xác định tỷ lệ đực cái của lươn thông qua quan sát tuyến sinh dục và tiêu bản. + Chiều dài của lươn được đo từ mõm đến cuối phần đuôi. + Sức sinh sản tuyệt đối = Tổng số trứng có trong buồng trứng của mỗi cá thể ở giai đoạn IV chín muồi sinh dục + Sức sinh sản tương đối SSSTĐ trứng/gam = Sức sinh sản tuyệt đối/ trọng lượng thân. + Độ béo Fulton % + Độ béo Clark % Trong đó Q Độ béo Fulton; Pg Trọng lượng toàn thân g; P0g Trọng lượng cá bỏ nội quan g; l0 Chiều dài từ mõm đến cuối phần phủ vẩy trên vây đuôi cm + Hệ số thành thục% = Trọng lượng tuyến sinh dục/Trọng lượng cá*100 - Các giai đoạn phát triển của buồng trứng được xác định theo Kiselevit 1923, và 1960, Pravdin 1963, Nguyễn Tường Anh 1999. - Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học, trên phần mềm vi tính Excel. 3 Kết quả nghiên cứu và thảo luận Tỷ lệ giới tính trong quần chủng tự nhiên của lươn đồng Trong 135 mẫu lươn thu được, qua giải phẫu để xác định giới tính, chúng tôi thu được sự biến động giới tính của lươn đồng giữa các nhóm kích thước như sau Qua bảng 1, chúng tôi có nhận xét như sau Tỷ lệ đực lưỡng tính cái bắt gặp ở tất cả các kích cỡ là 37,03% 18,53% 44,44%. Ở các nhóm kích thước 21-26,9cm và 54-70cm, tỷ lệ đực cái có sự chênh lệch lớn. Cụ thể, ở nhóm kích thước 21-26,9cm, chúng tôi bắt gặp 100% con cái, ở nhóm kích thước 54-70cm, con đực lại chiếm số lượng lớn 83,87%. Trong 3 nhóm kích thước, nhóm kích thước 27-53,9, số lượng lươn lưỡng tính chiếm tỷ lệ lớn 31,08%, có thể đây là kích 141 cỡ chuyển tính của lươn. Kết quả này phù hợp với nhận định của Tang et al, 1974 “Lươn Monopterus albus là loài lưỡng tính, hình thức lưỡng tính của nó là lưỡng tính kế tiếp, cái trước” Bảng 1 Tương quan giữa nhóm kích thước và tỷ lệ giới tính của lươn đồng Số cá thể lưỡng tínhcon Mối quan hệ giữa hệ số thành thục với độ béo của lươn đồng theo thời gian Trong quá trình phát dục và thành thục của lươn đồng, hệ số thành thục và độ béo của lươn có mối quan hệ với nhau. Để hiểu rõ mối quan hệ đó, chúng tôi tiến hành phân tích 50 mẫu lươn đực và 60 mẫu lươn cái, kết quả nghiên cứu được trình bày trong bảng 2 và 3. Qua bảng 2, 3 chúng tôi nhận thấy độ béo của lươn đồng tăng dần từ tháng 2 đến tháng 3 và giảm dần từ tháng 4 đến tháng 5. Điều này chứng tỏ rằng tháng 2 và tháng 3 là giai đoạn lươn tích luỹ chất dinh dưỡng vào cơ và gan, tháng 4 và tháng 5 là giai đoạn lươn chuyển hóa chất dinh dưỡng vào buồng trứng, làm độ béo của lươn giảm xuống, đồng thời buồng trứng tăng dần về kích thước và khối lượng, làm cho hệ số thành thục tăng lên. Kết quả này rất quan trọng trong sinh sản nhân tạo nhằm xây dựng quy trình nuôi vỗ 2 giai đoạn đối với lươn đồng để cung cấp nguồn lươn bố mẹ cho sản xuất giống nhân tạo. Kết quả này phù hợp với nhận định của Nguyễn Chung 2007. 142 Bảng 2 Hệ số thành thục và độ béo của lươn đực 2/2015 3/2015 4/2015 5/2015 0,09 ± 0,04 0,75 ± 0,02 0,85 ± 0,73 1,87 ± 0,57 9, 12, 10, 7, 8, 11, 9,69. 10-3 7,08. 10-3 Bảng 3 Hệ số thành thục và độ béo của lươn cái 2/2015 3/2015 4/2015 5/2015 1,05 ± 0,3 2,25 ± 0,84 3,01 ± 0,24 4,23 ± 0,78 9, 15, 9, 8, 8, 7, 8, 7, Mối quan hệ giữa thời gian và mức độ phát dục của lươn đồng Sự phát triển tuyến sinh dục của lươn đồng phụ thuộc vào điều kiện dinh dưỡng và điều kiện sinh thái của thủy vực, đặc biệt là chế độ nhiệt. Trong thời gian nghiên cứu chúng tôi nhận thấy các giai đoạn phát triển tuyến sinh dục của lươn đồng phụ thuộc vào thời gian các tháng trong năm và giữa cá thể đực và cá thể cái cũng có sự thành thục khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện ở bảng 4 và bảng 5 143 Bảng 4 Các giai đoạn phát triển tinh sào lươn qua các tháng * Ghi chú GĐTS Giai đoạn tinh sào Số trong ngoặc là tỷ lệ phần trăm % giai đoạn phát triển của tinh sào Bảng 5 Các giai đoạn phát triển noãn sào lươn qua các tháng * Ghi chú GĐNS Giai đoạn noãn sào Số trong ngoặc là tỷ lệ phần trăm % giai đoạn phát triển của noãn sào. Kết quả từ bảng 4 và bảng 5 chúng tôi nhận thấy Vào tháng 2 tuyến sinh dục của lươn đực và cái đều xuất hiện giai đoạn I với tần số khá cao lươn đực 53,85%, lươn cái 53,33%. Từ tháng 3 trở đi không thấy cá thể nào mang tuyến sinh dục giai đoạn I. Điều này chứng tỏ tuyến 144 sinh dục của lươn đồng phát triển rất nhanh, thời gian chuyển giai đoạn thành thục ngắn. Đến tháng 3, lươn đực và lươn cái đã xuất hiện tuyến sinh dục giai đoạn IV nhưng với tỷ lệ thấp đực 5,88%, cái 30,77%. Điều này nói lên rằng cuối tháng 3 lươn có thể tham gia đẻ trứng nếu gặp điều kiện thuận lợi nhiệt độ, pH, các điều kiện sinh thái.... Đến tháng 4, tần số xuất hiện giai đoạn 4 ở lươn đực và lươn cái là khá cao, chứng tỏ tháng 4 là tháng bắt đầu mùa sinh sản của lươn đồng. Vào tháng 5, tần số xuất hiện tuyến sinh dục giai đoạn IV ở lươn cái là rất lớn 83,33%, chứng tỏ tháng 5 là tháng đẻ cao điểm của lươn đồng. Kết quả của chúng tôi cũng tương tự kết quả nghiên cứu của Lý Văn Khánh 2008. Sức sinh sản của lươn đồng Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy lươn đồng là loài có sức sinh sản tuyệt đối thấp, phù hợp với đặc tính làm tổ, bảo vệ và chăm sóc con của lươn đồng. Kết quả nghiên cứu sinh sản của lươn đồng được thể hiện trong bảng 6 Kết quả ở bảng 6 cho chúng tôi một số nhận xét sau Sức sinh sản của lươn đồng thay đổi theo nhóm kích thước. Sức sinh sản tuyệt đối tăng tỷ lệ thuận theo nhóm kích thước còn sức sinh sản tương đối thì không tuân theo quy luật đó. Sức sinh sản tuyệt đối cao nhất ở nhóm có chiều dài từ 54-70cm là 638,67 trứng/cá thể. Sức sinh sản tương đối dao động trung bình là 3,54-7,89 trứng/gam trọng lượng cơ thể. Sức sinh sản tuyệt đối lớn nhất mà chúng tôi bắt gặp là 750 trứng/cá thể có kích thước 55,5cm và trọng lượng 180g. Kết quả từ nghiên cứu này tương đương với các nghiên cứu trước đây về sức sinh sản của lươn đồng từ 200-1000 trứng/con cái Hill et al. , 2000; Đức Hiệp, 1999; Việt Chương và Nguyễn Việt Thái, 2005; Ngô Trọng Lư, 2002. Bảng 6 Sức sinh sản của lươn đồng Sức sinh sản tuyệt đối trứng/cá thể ±m Sức sinh sản tương đối trứng/g±m 21 - 26,9 27 - 53,9 54 - 70 156,43 ± 43,75 475,70 ± 105,64 638,67 ± 84,24 7,89 ± 4,48 5,04 ± 1,45 3,54 ± 0,07 145 Các giai đoạn phát triển của noãn sào Trên cơ sở sự phân chia tuyến sinh dục cá theo thang 6 bậc giai đoạn của Kixelevits 1925, Sacun và Butskaia 1986, chúng tôi đã xác định được các giai đoạn phát triển của buồng trứng lươn đồng với các đặc điểm sau Giai đoạn I Hình dạng ngoài của tuyến sinh dục Xuất hiện ở những cá thể chưa thành thục. Giai đoạn này bằng mắt thường khó phân biệt được giới tính. Đặc điểm tế bào học Các tế bào sinh dục là các nguyên bào và các noãn bào mới đang lớn lên, có kích thước bé, xếp sát nhau và không theo quy luật. Dưới kính hiển vi thấy nhân tế bào lớn, chiếm hầu hết thể tích của tế bào. Chưa thấy các mạch máu, mô liên kết chưa phát triển. Đặc trưng giai đoạn này là những nguyên bào đang lớn lên. Giai đoạn II Hình dạng ngoài của tuyến sinh dục Tuyến sinh dục vẫn trong suốt, có màu hơi hồng nhưng kích thước lớn hơn. Quan sát kỹ bằng mắt thường có thể thấy rất nhiều chấm nhỏ màu sẫm. Đặc điểm tế bào học Dưới kính hiển vi dễ dàng nhận thấy có sự lớn lên rõ rệt về kích thước so với tế bào trứng ở giai đoạn I. Nguyên nhân là do quá trình phát triển của nguyên sinh gây ra. Nhân không nằm ở chính giữa nữa mà lệch về một phía. Trứng có dạng đa giác do sự phát triển không đều của nguyên sinh chất. Cuối giai đoạn này tế bào trứng bắt đầu tròn hơn. Đã thấy các mạch máu phân bố tới các tế bào trứng. Hình 2 Noãn sào giai đoạn I, II Hình 3 Noãn sào giai đoạn III Độ phóng đại 40x10 146 Giai đoạn III Hình dạng ngoài của tuyến sinh dục Buồng trứng có màu vàng và bằng mắt thường đã có thể phân biệt được đực, cái. Tế bào trứng có màu vàng nhạt được bọc trong một bao chung với số lượng lớn. Có thể thấy rất rõ các mạch máu đỏ, rẽ làm nhiều nhánh và phân bố trên bề mặt của buồng trứng. Đặc điểm tế bào học Kích thước tế bào trứng tiếp tục tăng lên, có nhiều biến đổi quan trọng liên quan đến việc tích luỹ chất dinh dưỡng, chuẩn bị cho quá trình đẻ trứng và phát triển phôi sau này. Nang trứng được hình thành xung quanh noãn. Đặc trưng của giai đoạn này là sự xuất hiện các không bào và các hạt noãn hoàng. Kết thúc thời kỳ này các hạt noãn hoàng tích lũy đầy đủ. Buồng trứng giai đoạn này có các tế bào giai đoạn I, II đang phát triển. Giai đoạn IV Hình dạng ngoài của tuyến sinh dục Buồng trứng bước vào thời kỳ chín, có kích thước và trọng lượng tối đa. Buồng trứng có màu vàng đậm hơi ngã sang màu cam. Bằng mắt thường có thể nhìn rất rõ các hạt trứng. Cuối giai đoạn này lươn có thể tham gia đẻ trứng. Đặc điểm tế bào học Kích thước tế bào trứng tăng tối đa, kích thước lớn nhất. Trứng tròn và rời, nhân tế bào lệch về cực động vật nơi chứa phần lớn nguyên sinh chất. Cực thực vật chủ yếu là noãn hoàng trộn lẫn với các giọt mỡ. Bên cạnh các tế bào trứng giai đoạn IV còn thấy có nhiều tế bào trứng ở giai đoạn II, III và một số ít giai đoạn I. Hình 4 Noãn sào giai đoạn IV Hình 5 Noãn sào giai đoạn V Hình 6 Noãn sào giai đoạn VI Giai đoạn V Hình dạng ngoài của tuyến sinh dục Giai đoạn này diễn ra rất nhanh, khi tuyến sinh dục phát triển đến giai đoạn này chỉ cần dùng tay vuốt nhẹ trứng đã chảy ra. Ngoài tự nhiên lươn đẻ ở giai đoạn này. 147 Đặc điểm tế bào học Nang trứng nứt, vỡ ra các noãn bào rơi vào xoang buồng trứng. Các mạch máu xung huyết và căng phồng. Bên cạnh những tế bào trứng giai đoạn V còn có nhiều tế bào trứng ở các giai đoạn III, IV và cả giai đoạn II, điều đó chứng tỏ rằng lươn đồng là loài đẻ nhiều lần trong vụ sinh sản. Giai đoạn VI Hình dạng ngoài của tuyến sinh dục Buồng trứng sau khi đẻ xong teo lại, nhão, có màu hồng do sự chảy máu lúc vỡ nang trứng. Màng buồng trứng dày lên. Đặc điểm tế bào học Đặc trưng của giai đoạn này là sự có mặt của nang trứng vỡ, xoang buồng trứng rỗng. Thành phần của tế bào trứng gồm các giai đoạn II, III tiếp tục phát triển cho lần đẻ tiếp theo, điều này chứng tỏ lươn đồng là loài đẻ nhiều lần trong năm. Đặc điểm lưỡng tính của lươn đồng Xem 20 tiêu bản dưới kính hiển vi với độ phóng đại khác nhau, chúng tôi phát hiện có 4 tiêu bản có hiện tượng lưỡng tính. Ở độ phóng đại 40 lần, chúng tôi thấy những tế bào trứng nằm xen kẽ với những tinh trùng. Giai đoạn phát triển của trứng và tinh trùng tương đối giống nhau. Trên tiêu bản tế bào trứng ở giai đoạn I và II, nằm xen kẽ với các tế bào sinh dục đực giai đoạn một. Từ kết quả trên chúng tôi có một số nhận định như sau - Sự phát triển của quần thể lươn Monopterus albus đi theo hai hướng Hướng thứ nhất là giữ nguyên giới tính từ lúc mới nở cho đến lúc già chết, hướng thứ hai Khi đến một kích cỡ nhất định dưới tác dụng của nhiều nhân tố tự nhiên và nội tại, một số cá thể trong chủng quần đã đổi thành con đực chức phận để thực hiện chức năng tham gia vào quá trình sinh sản. Nhưng trước khi chuyển giới tính chúng phải trải qua một giai đoạn trung gian đó là giai đoạn lưỡng tính. Vì vậy, đây cũng chính là giai đoạn để căn cứ vào đó xác định loài cá đang nghiên cứu là đơn tính hay lưỡng tính. - Cá thể được chúng tôi phát hiện có kích thước 35,5cm, kết hợp với kết quả bảng 1, trong nhóm kích thước 27-53,9 tỷ lệ lưỡng tính chiếm 31,08%, do đó đây rất có thể là kích cỡ chuyển tính của cá. Nhưng với số lượng mẫu nhỏ, chúng tôi chưa thể khẳng định điều đó là chính xác, chúng tôi chỉ nêu lên những nhận xét để tạo hướng nghiên cứu tiếp theo sau này. 148 Hình 7 Hình 8 Hình 7 Mặt cắt ngang tiêu bản tuyến sinh dục lưỡng tính với độ phóng đại 40 lần Hình 8 Mặt cắt dọc tiêu bản tuyến sinh dục lưỡng tính với độ phóng đại 40 lần Các giai đoạn phát triển của tinh sào Giai đoạn I Trong giai đoạn này tinh sào chưa phát triển. Tuyến sinh dục đực lúc này là hai sợi chỉ trong suốt, thường chưa phân biệt được đực, cái. Các mạch máu chưa phát triển nên tinh sào không có màu. Giai đoạn II Hình 9 Tinh sào giai đoạn I và II Hình 10 Tinh sào giai đoạn III Đặc trưng giai đoạn II là sự tồn tại các tế bào sinh dục ở thời kỳ đầu của quá trình tạo tinh trùng, tức là tinh nguyên bào đang trong trạng thái sinh sản. Nhờ sự sinh sản của các tế bào này nên tinh sào tăng về mặt kích thước. Tinh sào dần dần đục hơn, tuyến sinh dục lúc này có dạng một băng dẹt mỏng. Đây là giai đoạn lớn, các tế bào sinh dục giai đoạn này được gọi là tinh bào bậc một. Dưới kính hiển vi có thể thấy các tế bào này tăng kích thước chút ít. Các mạch máu và mô liên kết chưa phát triển. Giai đoạn III Giai đoạn này đặc trưng bởi sự chuyển biến mạnh mẽ tất cả các giai đoạn của quá trình tạo tinh trùng. Lúc này, ngoài tinh nguyên bào còn có cá tinh trùng bậc I, II và các tiền tinh trùng. Khối lượng tinh sào tăng nhanh, màu của tuyến sinh dục lúc này hơi hồng do các mạch máu phát triển mạnh. Các nhánh của ống dẫn tinh hẹp, tinh sào rất chắc và có tính đàn hồi. Cuối giai đoạn này xuất hiện các nhóm tinh trùng đã chín. 149 Giai đoạn IV Tinh sào giai đoạn IV có kích thước lớn nhất, trải dài theo 2 bên ống ruột, có màu trắng đục hơi hồng. Giai đoạn này đặc trưng bằng sự kết thúc quá trình tạo tinh trùng. Trong các ống dẫn tinh chứa đầy tinh trùng đã chín đang thoát ra khỏi tinh nang nằm tự do trong khoang của các ống dẫn tinh và di chuyển dần về ống dẫn chung. Trong giai đoạn này nếu dùng tay vuốt có thể thấy những giọt tinh đặc màu trắng sữa chảy ra. Hình 11 Tinh sào giai đoạn IV Hình 12 Tinh sào giai đoạn V Giai đoạn V Giai đoạn này đặc trưng cho trạng thái sinh sản của lươn, tức là sự chảy sẹ. Nếu như đè nhẹ lên bụng lươn, hoặc uốn cong thân thì từ lỗ sinh dục tinh trùng sẽ chảy ra có dạng loãng hơn giai đoạn IV. Giai đoạn VI Giai đoạn này đặc trưng cho trạng thái sau khi đẻ, tinh trùng trong các ống dẫn đã chảy hết, kích thước tinh sào giảm, xẹp xuống và có dạng một sợi dây mềm. Nếu mổ hoặc đè lên bụng thấy một ít chất lỏng màu vàng chảy ra. Sau giai đoạn VI, trong tinh sào lại bắt đầu thời kỳ sinh sản của các tinh nguyên bào, một đợt tinh trùng mới, tinh sào chuyển sang giai đoạn phát dục II. 4 Kết luận - Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ đực/lưỡng tính/cái là 37,03% 18,53% 44,44%. - Tháng bắt đầu tham gia sinh sản của lươn đồng là tháng 4, lươn có khả năng sinh sản sớm hơn vào cuối tháng 3 nếu gặp điều kiện thuận lợi. - Lươn đồng là loài đẻ nhiều lần trong năm. - Lươn đồng có sức sinh sản tuyệt đối cao nhất ở nhóm có chiều dài từ 54-70cm là 638,67 trứng/cá thể. Sức sinh sản tương đối dao động trung bình là 3,54-7,89 trứng/gam trọng lượng cơ thể. - Lươn đồng là loài lưỡng tính. 150 Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Tường Anh, 1999, “Nội tiết sinh sản cá”, Nhà xuất bản nông nghiêp Hà Nội. 2. Nguyễn Chung, 2007, “Kỹ thuật sinh sản, nuôi và đánh bắt lươn đồng”, Nhà xuất bản Nông nghiệp. 3. Việt Chương- Ks Nguyễn Việt Thái, 2005, “Phương pháp nuôi lươn”, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Lê Văn Dân, 2001, Bài giảng “Kỹ thuật sản xuất giống cá nước ngọt”, Đại học Nông lâm – Đại học Huế. 5. Bùi Lai, Vũ Trung Tạng, Trần Mai Thiên, Mai Đình Yên, 1989, “Ngư loại học”, Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp. 6. Ngô Trọng Lư - Lê Đăng Khuyến, 2000, “Kỹ thuật nuôi cá trê, lươn, giun đất ”, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. 7. Pravdin, 1973, “Hướng dẫn nghiên cứu cá” , Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật Nông thôn Hà Nội. Nguyễn Thị Minh Giang dịch. 8. OFXAKUN và 1982, “Xác định các giai đoạn phát dục và nghiên cứu chu kỳ sinh dục của cá ”, Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. Người dịch Lê Thanh Lựu. 9. Mai Đình Yên, 1978, “Phân loại cá nước ngọt ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật. 10. Arkhipchuk, 1999, Chromosome database. Database of Dr. Victor Arkhipchuk. 151 THE RESEARCH ON SOME CHARACTERISTICS OF REPRODUCTIVE BIOLOGY OF EEL Monopterus Zuiew Albus, 1793 IN THUA THIEN HUE Vo Duc Nghia1*, Le Thi Thu An1, Tran Vinh Phuong2 1University of Agriculture and Forestry - Hue University 2Center for Incubation and Technology Transfer - Hue University Abtract. The research results of reproductive biology characteristics of eel showed that the sex ratio male/bisexual/female in natural population of eel was 44 .44%. The peak spawning month is in April, but the eel also has earlier fertility in the end of March if they meet favourable condition. Eel is a species that spawns several times in a year. The eel group with the body length of 54-70cm has the highest absolute fecundity of 638,67 eggs/individual. The Relative Fecundity was fluctuated from to eggs/g body weight. The results from these specimens also showed that eel was hermaphrodite species. Keywords Biological characteristics, eel, bisexual, sex ratio, fecundity. ResearchGate has not been able to resolve any citations for this Nguyễn TườngNguyễn Tường Anh, 1999, "Nội tiết sinh sản cá", Nhà xuất bản nông nghiêp Hà thuật sinh sản, nuôi và đánh bắt lươn đồngNguyễn ChungNguyễn Chung, 2007, "Kỹ thuật sinh sản, nuôi và đánh bắt lươn đồng", Nhà xuất bản Nông thuật sản xuất giống cá nước ngọtLê Văn DânLê Văn Dân, 2001, Bài giảng "Kỹ thuật sản xuất giống cá nước ngọt", Đại học Nông lâm -Đại học 1973, "Hướng dẫn nghiên cứu cá", Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật Nông thôn Hà Nội. Nguyễn Thị Minh Giang định các giai đoạn phát dục và nghiên cứu chu kỳ sinh dục của cáN A OfxakunBuskaiaOFXAKUN và 1982, "Xác định các giai đoạn phát dục và nghiên cứu chu kỳ sinh dục của cá ", Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội. Người dịch Lê Thanh loại cá nước ngọt ở các tỉnh phía Bắc Việt NamYên Mai ĐìnhMai Đình Yên, 1978, "Phân loại cá nước ngọt ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam", Nhà xuất bản Khoa học kỹ database. Database of DrV V ArkhipchukArkhipchuk, 1999, Chromosome database. Database of Dr. Victor Arkhipchuk.
Chúng ta thường nghe nói rất nhiều về Phóng sinh vào dịp Tết, Rằm tháng Giêng hay Rằm tháng bảy,… đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa tâm linh của người Việt, nhưng không phải ai cũng hiểu trọn ý nghĩa của hai từ phóng sinh. Thực hiện đúng cách sẽ giúp quý vị có nhiều phước báu, nhưng sai cách vô tình sẽ gây nhiều hệ lụy cho chính bản thân quý vị cũng như sinh vật được chọn cho giải thoát. Hình ảnh người dân phóng sinh Cá là sinh vật được lựa chọn nhiều nhất Phóng sinh phóng sanh là gì? Phóng sinhnghĩa là giải phóng cho sự sống, những con vật bị nhốt và sắp bị giết chết để lấy thịt. Chúng ta bỏ tiền ra để mua những con vật sắp bị giết oan, thả tự do cho chúng. Phóng sinh còn là cứu giúp những chung sinh thoát khỏi những khổ đau, sự sợ hãi, đau đớn khi bị giam nhốt trong những chiếc chậu, lồng, nhà giam hoặc là đang bị tra tấn hành hạ, hoặc sắp bị giết chết,… Cá thường được các nhà chùa và các sư thầy chọn là sinh vật phóng sinh Còn theo quan niệm của Phật giáo thì phóng sinh nghĩa là cứu mạng, kéo dài sự sống của mọi sinh vật. Phóng sinh là một cách thể hiện tâm từ bi của người thực hiện phóng sinh. Đây cũng là một phương tiện để tu tập. Về nghĩa bóng thì phóng sinh có thể được hiểu là phóng thích những đen tối, ô uế của chính cái tâm mình như là lòng tham, sự ích kỹ, đố kỵ, hơn thua và lòng thù hận ra khỏi thân tâm mình để được tự do. Đại đức Thích Trúc Thái Minh từng chia sẻ “Phóng sinh, cứu vật là việc chúng ta nên làm, nhất là đối với những người Phật tử”. Và theo quan điểm của đạo Phật, phóng sinh là khi mình nhìn thấy các loài chúng sinh có mạng sống đang bị bắt nhốt, giam cầm, sắp sửa bị giết hại thì phát sinh lòng thương xót, tìm cách cứu chuộc, giải thoát, phóng thích, cứu mạng sống của chúng.” Đại đức Thích Trúc Thái Minh thả cá phóng sinh Rằm tháng Giêng cúng phóng sinh như thế nào để tạo phúc? Ý nghĩa của việc phóng sinh 1. Tăng trưởng phước báu và nuôi dưỡng tâm từ bi Đức Phật có dạy, đã là người đệ tử Phật, không kể xuất gia hay tại gia thì đều phải tu tập lòng từ. Trong đó phóng sinh là việc làm rất căn bản để tâm từ được nuôi dưỡng và tăng trưởng. Ý nghĩa lớn lao của lễ phóng sinh Đại đức Thích Trúc Thái Minh chia sẻ “Khi thấy người, con vật bị nạn hoặc sắp bị giết, chúng ta tìm cách cứu thì sẽ được phước báu rất lớn. Việc làm này cũng giúp tâm từ bi của chúng ta được nuôi dưỡng và tăng trưởng. Mà tâm từ bi là hạt nhân để thành Phật sau này. Không thể thành một vị Phật mà lại không có tâm từ. Cho nên, ý nghĩa đầu tiên của việc phóng sinh là chúng ta nuôi dưỡng tâm từ”. 2. Đem sự an vui đến cho tất cả các loài Người có tâm từ thì đi đâu cũng đem an lạc, bình an đến đó và tâm từ còn cảm ứng được cả trời đất. Do vậy, tâm từ rất quan trọng. Có thể những con vật được phóng sinh chưa hẳn được sống lâu dài, nhưng khi chúng ta phóng sinh là đã thể hiện tâm từ của chúng ta. Chúng ta hiểu rằng cứu các sinh mạng về môi trường sống tự nhiên thì tâm từ bi cũng như phước báu của chúng ta được tăng trưởng. Hướng dẫn phóng sinh đúng cách Không phải bạn giải phóng sự sống của sinh vật một cách vô tội vạ là đúng, mà cần có phương pháp thực hành chuẩn. Dưới đây là một vài hướng dẫn phóng sanh bạn có thể tham khảo 1- Phóng sinh là tùy tâm, không đặt nặng hình thức Có nhiều Phật tử đặt nặng hình thức trong phóng sinh, mua chim cá đem vô chùa chờ quý thầy làm lễ chú nguyện rồi mới thả. Có đôi khi nhốt chúng qua đêm hay đến ngày hôm sau, đợi làm lễ rồi mới thả chứ không thả liền. 1 trong những buổi lễ phóng sinh của hội phật giáo Hành động này không sai nhưng không nên quá câu nệ, rườm rà. Khi phóng sinh phải thực hành thao tác nhanh nhẹn, nghi lễ ngắn gọn, tránh cho các sinh vật kéo dài nỗi khổ của sợ hãi, tù túng vì bị giam cầm, thậm chí là bị mất mạng trước khi được phóng thích. 2- Phóng sinh không đặt nặng vấn đề số lượng Phóng sinh là xuất phát từ lòng từ bi, thương xót khi gặp con vật bị nạn. Ngay lúc đó mình ra tay cứu thoát, chứ không phải đặt mua hàng vài chục ký sinh vật trong chuồng trại để phóng thích. Làm như vậy vô tình quý vị đang đẩy các sinh vật đó đến với cái chết nhanh hơn, do bị các đối tượng khác săn bắt hoặc lưới ăn. Vì vậy, quý vị không nên đặt nặng vấn đề số lượng khi phóng sinh. Buổi cầu nguyện trong lễ phóng sinh Mọi việc đều phải tùy tâm, nếu tâm không thiện, mà phóng sanh theo phong trào thì cũng chẳng có ý nghĩa gì. Ngược lại, quý vị chỉ phóng sinh ít sinh vật thôi nhưng tâm luôn từ bi, thương xót cho mọi sinh mạng thì đều vô cùng trân quý. 3- Không lo phóng sinh rồi người khác bắt lại Đây là tâm lý chung của nhiều người khi phóng sinh. Tuy nhiên, nhân quả báo ứng như bóng theo hình, quý vị làm việc thiện là một việc, người khác tạo nghiệp là chuyện của họ. Quả của quý vị và quả của họ là khác nhau. Tâm muốn làm thì hãy cứ làm, muốn cứu giúp thì hãy cứ thực hiện ngay, đừng lo ngại suy nghĩ quá nhiều. 4- Cần tìm hiểu về môi trường sống của loài vật khi phóng sinh Chim thì bay trên trời, cá thì sống dưới nước, cá nước ngọt không thể sống ở biển, cá nước mặn không thể sống ở sông,… Nếu bạn thực sự phóng sinh thì cần phải hiểu rõ môi trường sống nào là phù hợp với từng loài sinh vật được phóng sinh. Đừng làm qua loa lấy lệ, cưỡi ngựa xem hoa, vì như vậy vô tình bạn đang tạo nghiệp cho chính mình. 5- Không nên chọn ngày tháng để phóng sinh Đành rằng ngày nay con người làm gì cũng vì mưu cầu phần lợi cho mình nhiều hơn. Nhưng trong đạo Phật, việc phóng sinh là tùy tâm, không phải để mang lại cái lợi ngay cho quý vị. Nhưng trong đạo Phật, việc phóng sinh là tùy tâm, không phải để mang lại cái lợi ngay cho quý vị. Thay vì chọn ngày hoặc dịp lễ lớn mới phóng sanh thì hãy làm việc này mỗi khi có thể. Khả năng bao nhiêu thì hãy thực hành phóng sinh bấy nhiêu. Tích tiểu thành đại, những sinh vật được thả sẽ vô cùng cám ơn sự thiện tâm của quý vị. 6- Những sinh vật nên chọn được cứu để phóng sinh Cuộc sống hiện đại và đa phần môi trường xung quanh chúng ta sinh sống là sông, ao, hồ nước ngọt chứ ít tiếp xúc với những sinh vật trên núi, trên rừng, dưới biển. Chính vì vậy nếu bạn đang sống ở các thành phố lớn thì lựa chọn các loại cá nước ngọt hoặc sinh vật sống ở nước ngọt là hợp lý nhất để phóng sinh. cá nước ngọt hoặc sinh vật sống ở nước ngọt là hợp lý nhất để phóng sinh. Nhưng không phải loại cá nước ngọt nào chúng ta cũng có thể thả được. Vì mỗi loại cá sẽ sống ở môi trường nước riêng và thường thì chúng ta sẽ lựa chọn những sinh vật sống được và sống khỏe ở môi trường chúng ta thả phóng sinh. Có thể liệt kê ra các loại Cá và sinh vật thường xuyên được người dân, các sư thầy và các nhà chùa thả như sau Tham khảo mua các sinh vật phóng sinh tại đây 1- Cá chép ta hoặc cá chép vàng thường thì sẽ chọn loại chép ta chửa hoặc loại nhỏ dưới 1kg/con. Cá chép rất khỏe sống ở nhiều môi trường Cá chim, cá trắm trắng, trắm đen nếu bạn thả phóng sinh ở môi trường sông, hồ rộng. Thả phóng sinh cá trắm đen, cá trắm cỏ 3- Trê, lăng, trê lai sống ở nhiều môi trường như ao, hồ, sông, ngòi…4- Cá chình, lươn, chạch có thể thả sông, Ba ba trơn cỡ nhỏ dưới 1kg có thể phóng sinh ở Rô ta, rô đồng thả phóng sinh ở ao7- Cá song nếu thả phóng sinh ở vùng ao nước Các loại sinh vật khác Ốc, ốc nhồi, Các sinh vật khác lựa chọn để phóng sinh Đặc biệt phóng sinh cá có trứng còn giải được nạn, tiêu nghiệp chướng Khấn cầu người hữu duyên gặp trứng cá hãy thả về nước, cứu một lần ngàn mạng. Hồi hướng công đức đó cho chúng sinh làm hại và bị làm hại trên thế gian đều có thể tiêu nghiệp chướng, đều có thể quay đầu, đều có thể tiêu tai giải nạn, tăng trưởng Bồ Đề Tâm, thì thật là phước đức lớn lao. Theo các nhà nghiên cứu – Một con Cá chép có thể sinh tới trứng trong một lần đẻ.– Một con Cua đồng 100-200 gram có thể sinh từ trứng trong một lần đẻ.– Một con Tôm có thể sinh từ trứng trong một lần đẻ.– Một con Ếch có thể sinh từ trứng trong một lần đẻ.– Một con Ốc có thể sinh từ 5-40 trứng trong một lần đẻ. Trong cuộc đời kéo dài khoảng hơn 1 năm của mình, một con Ốc có thể sinh đến trứng.– Một con Cá lóc có thể sinh từ trứng trong một lần đẻ.– Một con Cá Rô có thể sinh từ đến hơn trứng trong một lần đẻ.– Một con Lươn có thể sinh khoảng 100 trứng trong một lần đẻ.– Một con Cua Biển 300 gram có thể sinh trên trứng trong một lần đẻ.
vì sao phóng sinh lươn